
Nhiều nơi ở vùng Nam Măng Thít, hệ thống cống ngăn mặn vẫn mở nhiều thời đoạn, thuận lợi lấy nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt
Xâm nhập mặn giảm sâu về diện và lượng
Số liệu quan trắc của các cơ quan chuyên môn từ đầu mùa khô đến nay cho thấy, xâm nhập mặn năm nay ở vùng ĐBSCL không xuất hiện sớm, bất thường như mùa khô năm 2015-2016, 2019-2020 và cả mùa khô năm ngoái (2020-2021).
Phía sông Cổ Chiên, trong khi mùa khô 2019-2020 (năm mặn lên kỷ lục), mặn xuất hiện rất sớm. Tại tỉnh Vĩnh Long, ngày 8-9/12/2019, độ mặn 3,50/00 đã xuất hiện trên địa bàn huyện Vũng Liêm (cách cửa biển khoảng 60km). Nhưng từ đầu tháng 1 đến ngày 12/2/2022, mặn chưa xuất hiện ở Vĩnh Long, độ mặn tại các trạm đo đều dưới 1‰.
Đến giữa tháng 2 (vào kỳ triều cao Rằm tháng Giêng), xâm nhập mặn (độ mặn 3‰) mới bắt đầu ảnh hưởng đến Vĩnh Long (trễ hơn mùa khô 2019-2020 gần 2 tháng, sớm hơn mùa khô 2020-2021 hơn nửa tháng), nhưng đỉnh mặn (độ mặn cao nhất) trong đợt này thấp hơn nhiều so cùng kỳ năm ngoái (CKNN) và cùng kỳ (CK) năm 2020. Từ cuối tháng 2 đến nay, đỉnh mặn tại các trạm đo trong tỉnh chỉ ở mức xấp xỉ hoặc cao hơn một ít so với đợt Rằm tháng Giêng.
Cụ thể, đỉnh mặn tại các điểm đo là: Phía sông Cổ Chiên, tại cống Cái Hóp (Trà Vinh) chỉ lên mức 3,9‰ (CKNN là 7,2‰, CK năm 2020 là 11,8‰); cống Nàng Âm (Vũng Liêm): 4,9‰ (CKNN là 5,7‰, CK năm 2020 tại đây là 10‰), vàm Măng Thít (Vũng Liêm): 2,2‰ (CKNN là 3,2‰, CK năm 2020 là 6,2‰). Phía sông Hậu, tại cống Bông Bót (Cầu Kè-Trà Vinh) chỉ lên mức 1,8‰ (CKNN là 5,72‰), cống Tân Dinh (Cầu Kè-Trà Vinh): 1,3‰ (CKNN là 3,14‰), vàm Trà Ôn (Trà Ôn): 0,3‰ (CKNN là 1,3‰, CK năm 2020 là 2,2‰); và phía sông Tiền, tại vàm Cái Muối (xã Bình Hòa Phước, Long Hồ) chỉ đạt 0,2‰ (CK năm 2020 là 4,5‰)...
Trong tháng 3/2022, xâm nhập mặn giảm dần. Ranh giới mặn 1g/l trên sông Tiền cách cửa sông khoảng 50-55km, sông Hàm Luông khoảng 68-72km, các cửa sông khác từ 40-45km, sông Vàm Cỏ mặn vào sâu 65-70km (giảm hơn một nửa so với năm ngoái).
Các yếu tố cơ bản góp phần làm giảm xâm nhập mặn
Xâm nhập mặn trong mùa khô năm nay ở vùng ĐBSCL đang trong thời kỳ cao điểm, nhưng diễn biến của thiên tai này từ đầu mùa đến nay không gay gắt như đã xảy ra trong các mùa khô năm trước. Yếu tố quan trọng nhất đóng góp làm cho mặn không xâm nhập sâu vào nội vùng là từ những tháng đầu năm 2022, nguồn nước về ĐBSCL đều cao hơn các năm trước.
Theo Viện Khoa học Thủy lợi Miền nam, từ giữa tháng 12/2021 đến đầu tháng 2/2022, dòng chảy thượng nguồn sông MeKong có xu thế giảm. Tuy nhiên, do mưa kết thúc muộn đến 12/2021, lượng tích nước tại biển Hồ (Campuchia) cao hơn so với cùng kỳ các mùa khô năm 2015-2016, 2019-2020, 2020-2021. Ở ĐBSCL, mưa trái mùa xảy ra trên diện rộng, lượng mưa lớn nên dòng chảy từ thượng nguồn về hạ lưu khá lớn.
Từ ngày 19-24/2/2022, thuỷ điện Cảnh Hồng (Trung Quốc) gia tăng lượng xả nước hơn 1.000m3/s, tương đương với 2 tổ máy phát điện (trước đó, từ 23/1 đến 7/2 xả dưới 700m3/s), nhưng từ ngày 1/3 đến nay tăng lên hơn 1.400m3/s, cộng với mưa lớn trái mùa trên diện rộng góp phần làm nguồn nước về hạ lưu gia tăng. Mực nước trên trên dòng chính sông MeKong tăng với cường suất trung bình 6,7cm/ngày. Từ 7/4-14/4, xả nước từ thủy điện Cảnh Hồng xuống hạ lưu dao động trong khoảng từ 1.123-1.916 m3/s.
Việc gia tăng xả nước làm mực nước hệ thống sông chnh gia tăng. Đến ngày 3/3, mực nước tại trạm Kratie (Campuchia), là 7,21m, cao hơn so với TBNN, mùa khô 2015-2016, 2019-2020 và 2020-2021 lần lượt là 0,79m, 0,67m, 0,81m và 0,35m; tại Biển Hồ, dung tích nước khoảng 3 tỷ m3, cao hơn 0,6, 1,1, 1,15 tỷ m3 lần lượt so với các năm 2020-2021, 2019-2020, 2015-2016. Đến ngày 14/4, mực nước tại Kratie ở mức 8,1m, cao hơn mực nước trung bình nhiều năm, mùa khô 2015-2016, 2017-2018, 2019-2020 và 2020-2021 lần lượt là 1,82m, 0,78m, 0,4m, 1,01m và 0,6m.
Ở đầu nguồn sông Cửu Long, từ ngày 25/2-3/3, mực nước gia tăng với cường suất trung bình từ 9,2-11,6 cm/ngày. Đến ngày 3/3, mực nước tại trạm Tân Châu là 1,48m (cao hơn so với TBNN, năm 2016 và 2020 lần lượt là 0,23m, 0,49m, 0,46m); tại trạm Châu Đốc là 1,65m (cao hơn so với TBNN, năm 2016 và 2020 lần lượt là 0,28m, 0,51m, 061m). Ở Vĩnh Long, tại Mỹ Thuận là 1,54m (cao hơn so với TBNN, năm 2016 và 2020 lần lượt là 0,35m, 0,67m, 0,51m), đặc biệt ngày 4/4 đạt mức kỷ lục trong các mùa khô là 1,65m. Đến ngày 14/4, tại trạm Tân Châu đạt 1,16m (cao hơn TBNN là 0,06m và cao hơn các năm gần đây cùng thời kỳ từ 0,1-0,2m), tại trạm Châu Đốc là 1,36m (cao hơn TBNN 0,12m và cao hơn các năm gần đây cùng thời kỳ từ 0,13-0,37m).
Bên cạnh đó, hiện tượng La-Nina đã ảnh hưởng đáng kể độ mặn của nước biển ở vùng ven biển và hải đảo nước ta; làm nắng nóng không quá gay gắt, gây ra mưa trái mùa, góp phần cung cấp lượng nước đáng kể trong mùa khô.
Theo các cơ quan dự báo khí tượng thủy văn trong nước, hiện tượng La Nina (pha lạnh) đã ảnh hưởng đến nước ta từ tháng 9/2020 và duy trì cường độ yếu đến tháng 3/2022. Từ đầu mùa khô đến nay đã xuất hiện mưa trái mùa rải rác hoặc diện rộng ở vùng ĐBSCL (vào ngày 8/2 và từ ngày 22-24/2) nên nền nhiệt độ thấp đã góp phần giảm mức độ ảnh hưởng xâm nhập mặn hơn so với dự báo trước đó.
Từ 31/3-7/4, mưa xuất hiện nhiều nơi ở vùng ĐBSCL với vũ lượng bình quân khoảng 30-50mm, một số nơi mưa lớn với vũ lượng trên 100mm như Kiên Giang, Cà Mau. Ở Vĩnh Long, theo Đài Khí tượng-Thủy văn tỉnh Vĩnh Long, mùa mưa năm 2021 kết thúc muộn đến đầu tháng 12/2021. Tuy nhiên, trong tháng 12/2021 có 2 đợt mưa trái mùa: Đợt từ ngày 9-10 với lượng mưa nhỏ hơn 10mm và đợt từ ngày 26-28 có mưa lớn trên diện rộng, lượng mưa ở trạm Vũng Liêm đo được 38,5mm. Sau đó, đợt mưa nặng hạt từ 22-24/2 có lượng mưa đo được tại các trạm ở Vĩnh Long từ 34,5-54,3mm/ngày. Tổng lượng mưa tháng 2 cao hơn so với TBNN từ 10-27mm.
Một yếu tố nữa cũng làm dịu bớt xâm nhập mặn là gió Chướng hoạt động yếu, các xoáy thuận nhiệt đới (bão, áp thấp nhiệt đới) không xuất hiện trên biển Đông nên không tạo yếu tố thúc đẩy xâm nhập sâu vào nội vùng.
Trong các tháng còn lại của mùa khô năm nay, theo nhận định của các cơ quan chuyên môn, trạng thái La Nina sẽ tiếp tục duy trì trong ba tháng tới (tháng 3 đến tháng 5) với xác suất 77% và có khả năng chuyển dần sang trạng thái trung tính từ khoảng tháng 5-7/2022 với xác suất khoảng 50-60%.
Theo Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, mùa mưa có khả năng đến sớm trên khu vực Nam bộ; từ tháng 4-5, tổng lượng mưa cao hơn từ 10-25% so với TBNN. Giai đoạn chuyển mùa và đầu mùa mưa (từ khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4 trở đi) trong những cơn mưa dông. Tại Vĩnh Long, tổng lượng mưa tháng từ tháng 3 đến tháng 6 ở mức xấp xỉ và cao hơn so với TBNN.
Các yếu tố khí được dự báo nêu trên sẽ góp phần làm cho xâm nhập mặn ở vùng ĐBSCL (trong đó có Vĩnh long) sẽ giảm sâu trong các tháng còn lại của mùa khô năm nay. Dự báo, trong tháng 4/2022, xâm nhập mặn có xu thế giảm dần. Ranh giới mặn 1g/l trên sông Tiền cách cửa sông khoảng 50-55km, sông Hàm Luông khoảng 68-72km, các cửa sông khác từ 40-45km, sông Vàm Cỏ mặn vào sâu 65-70km.
Bài, ảnh: Thành Thặng